NGÀY TÀN CỦA YÊN SƠN QUÂN
Ở thời vua thứ 9 Triều Tiên Thành Tông của nhà Triều Tiên nước Cao Ly, tại kinh đô Hán Thành Phủ trong cung Cảnh Phúc, hậu cung của nhà vua tranh đấu dẫn đến sự xụp đổ quyền lực của Cung Huệ Vương Hậu đang là Trung Điện và cái chết thảm của bà. Con trai của bà và Thành Tông là Vương Thế Tử Lý Long sau biến cố mất mẹ thì được Trinh Hiển Vương Hậu tức Trung Điện mới vợ chính thất của Thành Tông nuôi dạy, sau này lên ngôi trở thành vua thứ 10 của nhà Triều Tiên mà sử gọi là Yên Sơn Quân. Sau khi lên ngôi Yên Sơn Quân chăm lo chính sự, cần kiệm thương dân, phát triển quốc phòng, kinh tế xã hội, văn hoá giáo dục nhưng do mâu thuẫn trong nội bộ triều đình nên một số đại thần bị thất sủng như Nhậm Sĩ Hồng và Liễu Tử Quang đã cho ông biết sự thật về cái chết của mẹ ông là Cung Huệ Vương Hậu. Khi đã biết được sự thật đau đớn này, vì muốn trả thù cho mẹ ruột nên ông đã ra sức khủng bố triều đình, tàn sát các quan viên và phi tần của Thành Tông từng là nguyên nhân gây ra cái chết cho mẹ ông. Yên Sơn Quân tức giận và bắt giữ nhiều đại thần có liên quan. Tất cả đều bị sát hại sau đó, sự kiện này xảy ra vào năm 1498 và được gọi là Mậu Ngọ sĩ họa; hay Cuộc thanh trừng lần thứ nhất.
Ngày 20 tháng 3 năm 1504, trong cơn cuồng loạn ông ra lệnh đánh đập, hành hạ cho đến chết hai vị Quý nhân Trịnh thị và Quý nhân Nghiêm thị đều là hậu cung nội mệnh phụ của tiên vương vì cho rằng họ có âm mưu hãm hại khiến mẫu thân của ông bị truất phế vương vị, đồng thời buông lời đại bất kính miệt thị Nhân Tuý Đại vương đại phi (tức nội tổ mẫu của ông) cùng Từ Thuận Đại phi (tức Trinh Hiển vương hậu, đích kế mẫu của ông) vì cho rằng hai vị trên có liên quan đến việc phế truất và ban chết mẫu thân của ông, khiến Đại vương đại phi Nhân Tuý vì uất ức mà sinh bệnh qua đời không lâu sau đó.
Cũng trong năm 1504 đó ông xử tử rất nhiều học giả Nho giáo trước đây đã tấu lên vua Thành Tông để phế truất mẹ mình, và đào mộ của Hàn Minh Quái để chặt đầu tử thi; được lịch sử gọi là Giáp Tý sĩ họa hay Cuộc thanh trừng lần thứ hai.
Sau vụ thảm sát này, nhiều dân thường chế nhạo và xúc phạm nhà vua với các biểu ngữ được viết bằng chữ quốc ngữ ngày nay hay gọi là tiếng Hàn. Điều này càng làm cho Yên Sơn Quân tức giận hơn. Ông cấm sử dụng quốc ngữ , đóng cửa Thành Quân Quán- trường đại học quốc gia. Ông còn ra lệnh người dân trên toàn bán đảo Triều Tiên phải tiến cống các cô gái trẻ và ngựa để phục vụ cho nhu cầu giải trí của mình. Nhiều người sợ cách cai trị chuyên chế của Yên Sơn Quân, tương phản hoàn toàn với sự tự do của thời đại vua cha Thành Tông.
PHẢN CHÍNH NĂM BÍNH DẦN.
Năm 1506, một nhóm các quan đại thần, dẫn đầu là Phác Nguyên Tông, Thành Hi Nhan , Liễu Thuận Đinh và sự hậu thuẫn của Từ Thuận Đại phi đã vạch ra âm mưu chống lại Yên Sơn Quân. Ngày 2 tháng 9 năm đó, họ tiến hành cuộc binh biến phế truất ông và lập Tấn Thành Đại quân, người em cùng cha khác mẹ của Yên Sơn Quân lên ngôi vua, tức Triều Tiên Trung Tông. Đây được gọi là Trung Tông phản chính. Ông bị giáng xuống làm Vương tử và bị lưu đày ở Giang Hoa đảo. Ông qua đời vào ngày 20 tháng 11 cùng năm đó mà không có miếu hiệu và thụy hiệu.
TRUNG TÔNG LÊN NGÔI
Trung Tông có tên húy là Lý Dịch , tên tự là Nhạc Thiên , sinh vào ngày 19 tháng 3, năm 1488. Ông là con trai thứ 9 của Triều Tiên Thành Tông nhưng xét ra là đích tử, chỉ sau anh trai ông là Yên Sơn Quân. Mẹ ông là Trinh Hiển vương Hậu Doãn thị, người ở Pha Bình, là chính thất của Thành Tông khi đó, kế vị Phế phi Doãn thị là mẹ của Yên Sơn Quân.
Năm 1494, Yên Sơn Quân lên kế vị, Trung Tông khi ấy được 6 tuổi, tấn phong hiệu là Tấn Thành đại quân. Mẹ ông là Trinh Hiển Vương hậu được Yên Sơn Quân tôn làm Từ Thuận Vương đại phi.
ĐOAN KÍNH VƯƠNG HẬU BỊ PHẾ TRUẤT.
Vào ngày Yên Sơn Quân bị phế truất, binh lính của những người lãnh đạo cuộc đảo chính bao vây nhà của Tấn Thành Đại quân. Ông đang chuẩn bị tự sát vì nghĩ rằng Yên Sơn Quân sẽ giết mình, nhưng ông đã được vợ mình là Thận thị khuyên can. Ông được tôn làm Quốc vương, còn vợ ông là Thận thị được phong làm Vương phi gọi là Đoan Kính Vương Hậu. Tuy nhiên, Thận Vương phi là con gái của Thận Thủ Cần, người đã bị phái Huân Cựu giết hại vì phản đối việc phế truất Yên Sơn Quân. Phái Huân Cựu sợ Vương phi sẽ báo thù nên ép buộc Trung Tông phải phế bỏ Thận thị và lưu đày.
TẤN LẬP CHƯƠNG KÍNH VƯƠNG HẬU
Sau khi Phế Phi Họ Thận được đưa ra khỏi cung, Triều đình chọn lựa trong gia tộc họ Doãn được người em gái của Doãn Nhâm một công thần Phản Chính thuộc phe Huân Cựu vào cung làm chính thất của vua Trung Tông gọi là Chương Kính Vương Hậu. Ngoài Chương Kính Vương Hậu trong cung còn có những vị khác được lập làm Tần là Kính Tần họ Phác, con nuôi của Phác Nguyên Tông, Hy Tần họ Hồng là con của Hồng Cảnh Chu và Xương Tần họ An được đưa vào hậu cung.
PHA ĐÔNG CUN HOÀNG THÚC.
Em trai của tiên vương Thành Tông là Pha Đông Cun sau khi biết Trung Tông lên ngôi đã vào cung để trầu và khuyên bảo Trung Tông hết sức tự chủ trong việc nắm giữ quyền lực. Phe Huân Cựu nhận thấy tuy chỉ là một tông thất nhưng Pha Đông Cun nhìn xa trông rộng rất là nguy hiểm nếu Trung Tông gọi ông ta vào triều làm quan nên ra sức hãm hại.
Về đời sống riêng, để an phận nên các vương tử là con của vua mà không được lên ngôi vua thì đều sợ trở thành cái gai trong mắt anh em mình, Pha Đông Cun cũng vậy, ông cố gắng sống an phận. Thường ngày ông đến chơi ở một kỹ viện tên là cầu trang thông và có đem lòng yêu một kỹ nữ ở đó và Kỹ nữ này có thai với ông.
Nhận ra từ khi vào trầu Trung Tông thì một số quan viên Phái Huân cựu đã để ý để hãm hại, ông bẻ miếng ngọc bội ra làm hai đưa cho cô kỹ nữ một nửa còn một nửa giữ lại đề phòng bất trắc sau này còn có thể tìm ra nhau và nhận lại đứa con.
Quả đúng như ông biết trước, ông bị Phác Nguyên Tông vu cho tội mưu phản và bị Nghĩa Cấm phủ bắt giữ xử lưu đày. Cô kỹ nữ kia trên đường lưu lạc thì sinh khó, tuy gặp được một vị sư thầy đã đỡ đẻ cho cô một đứa con gái nhưng cô đã bất hạnh qua đời. Trước khi qua đời cô có nói lại thân thế bé gái là máu mủ của Vương thất, con của Pha Đông Cun và giao lại nửa miếng ngọc bội ..
TRUNG TÔNG BẮT ĐẦU TRỊ VÌ
Năm 1509 Phác Nguyên Tông chết, Trung tông tuy có nắm được nhiều quyền lực hơn nhưng cũng còn cơ số những công thần phản chính nên vì nể nang đã khiến Trung Tông không thể phát huy hết quyền lực tuyệt đối của mình. Năm 1510 Trung Tông cho mở cửa lại Thành Quân Quán. Trong triều đình lúc này chia làm hai phe đó là phe Huân cựu của các công thần có công thực hiện phản chính đưa Trung Tông lên ngôi nên còn gọi là phe Công thần phản chính đứng đầu là Hồng Cảnh Chu và một số thành phần nổi về sau như Nam Cổn, Hoa Xuân Quân (Sim Chơng), Hy Lạc Đương (Kim An Lão), Phán Phủ Sự (Doãn Nhâm)... Phe còn lại là Phái Sĩ Lâm đứng đầu là Vĩnh Mộ Đường (An Đang), Tĩnh Am (Triệu Quang Tổ) và Chơng Quang Phiên đại nhân.
TRIỆU QUANG TỔ VÀO TRIỀU LÀM QUAN
Năm 1515, Triệu Quang Tổ thi điện, đỗ Trạng nguyên, tiến vào triều đình nhậm chức, quan đến Đồng Phó Thừa chỉ cầm đầu Phe Sĩ Lâm, Triệu Quang Tổ là người có tư tưởng độc tôn Nho giáo muốn hạn chế quyền lực lộng hành của phe Công thần huân cựu để cho nhà vua có toàn quyền canh tân đất nước.
THÂN THẾ TRỊNH LAN TRINH
Đô Tổng Quản tên Trịnh Doãn Khiêm là người nắm giữ Đô Tổng Phủ trong tay, cai quản quân đội kinh thành nhà ông ta có hai vợ, vợ cả Chính thất và vợ lẽ, bà ta có 2 đứa con trai là Trịnh Thục và gái là Trịnh Huệ, vợ lẽ mang thai sắp sinh. Do ghen tức nên vợ cả mới nhờ vả một người phụ nữ họ Lê tìm cách làm cho cô vợ lẽ xẩy thai để chồng mình không còn thương vợ lẽ nữa. Sát ngày sinh khi cô vợ lẽ đi lên chùa trên núi cầu phúc thì trở dạ, bất ngờ bị bà Lê xô xuống núi. Vị sư thầy trên đường về chùa thì cứu được cô nhưng đã chết mất đứa bé con mình, sẵn đứa bé gái con của cô kỹ nữ trong tay đang khát sữa mẹ sư thầy giao đứa trẻ cho cô kia làm con và cô hứa sẽ nuôi dạy tử tế. Gần một tuần vợ lẽ mất tích khiến Đô Tổng Quản hết sức lo lắng chợt người hầu nói vợ lẽ về từ chùa đã sinh bé gái khỏe mạnh, Đô Tổng Quản hết sức vui mừng đặt tên con gái là Trịnh Lan Trinh.
Trịnh Lan Trinh là con của vợ lẽ sinh ra đã mang thân phận thấp hèn nên thường bị mẹ cả và anh chị khinh miệt từ bé nhưng bù lại cô rất thông minh, chăm chỉ và xinh đẹp khiến Đô Tổng Quản ngày càng yêu quý. Năm 1512 trong một lần ra chợ đi mua đồ , Lan Trinh có gặp và quen biết sau đó là kết tình chị em với một cô gái đồng trang lứa tên Ốc Mê Hăng là con của một kỹ nữ vốn là chị em thân thiết với mẹ ruột của Lan Trinh.
TRỊNH LAN TRINH QUEN BIẾT KIM SANG
Khi bị mẹ cả lập kế đuổi ra khỏi nhà thì sau đó Lan Trinh có quen biết một người là Kim Sang. Kim Sang là một chàng trai giỏi võ và đem lòng yêu Lan Trinh từ lần ấy. Cô cũng gặp mặt và quen biết với một cô gái hơn tuổi mà sau này trở thành Văn Định Vương Hậu vợ chính thất thứ 3 của Trung Tông.
Sau khi cãi nhau với mẹ cả một trận lớn vì bao bất công nhục nhã của ba mẹ con họ dành cho mẹ con mình, Lan Trinh bỏ nhà đi và tìm lên chùa sống cùng với Sư thầy và sư đệ của ông vốn là thợ giày nhưng kiến thức vô cùng uyên bác. Ở đây cô học hỏi được rất nhiều điều và không ngoa khi nói nếu là nam giới, cô có thể thi đỗ được cả trạng nguyên.
VĂN ĐỊNH VƯƠNG HẬU NHẬP CUNG
Năm 1515, Chương Kính Vương Hậu họ Doãn qua đời vì hậu sản sau khi hạ sinh Vương Thế Tử. Triều đình chia làm 2 phe, Phe Công thần muốn lập một trong các phi tần của Trung Tông lên làm Trung Điện và phe Sĩ Lâm muốn phục vị cho Phế Phi họ Thận. Tranh cãi nảy lửa khiến Trung Tông khó xử, trong triều có người tên Kim An Lão hiệu là Hy Lạc Đương dâng kế Trung Tông nghe gọi là Lưỡng Thị Luận nghĩa là đồng ý cả 2 phe để tránh việc cãi nhau không dứt. Đó là đồng ý với bên Sĩ Lâm là không chọn Trung Điện mới từ các phi Tần cũng đồng ý với bên Công thần là không phục vị cho Phế Phi họ Thận và ông quyết định lập Trung Điện mới. Từ Thuận đại phi tìm trong nên chọn họ Doãn của mình. Nghe theo Doãn Nhâm (Anh trai của Chương Kính Vương Hậu) chọn ra con gái của Doãn Chi Nhậm vào cung làm Trung Điện, năm 1507 sau khi vào cung được tấn phong làm Văn Định Vương Hậu chủ nhân Dao Thái Điện hay còn gọi là Trung Cung Điện. Doãn Chi Nhậm cũng được phong là Pha Sơn Phủ Viện Quân. Sau sự kiện Lưỡng Thị Luận này Hy Lạc Đương rất được Trung Tông xủng hạnh.
Trịnh Lan Trinh quen biết Doãn Nguyên Hành - Nhị Thừa Hầu Quan
Cô xuống núi vào năm 1518 sau 6 năm trên núi học hành, cô tới kỹ viện thăm bạn là Ốc Mê Hăng tình cờ gặp Doãn Nguyên Hành là anh trai của Trung Điện mới tới kỹ viện chơi. Sau khi biết thông tin rằng đây là anh trai thứ của Trung Điện, Lan Trinh bắt đầu có suy nghĩ muốn làm quen để gặp gỡ Trung Điện Văn Định để từ đó thay đổi thân vận hèn kém là con của tiểu thiếp bằng chính khả năng của mình trong một cái xã hội vốn không coi trọng phụ nữ này.
Lan Trinh là một cô gái đẹp tuyệt nên mới chỉ gặp một lần đầu mà Nhị Thừa Hầu Quan Doãn đã si mê nàng, Doãn nguyên hành còn tự viết vào cây quạt giấy của mình bốn chữ “nhất phiến đan tâm” để tỏ lòng mến mộ.
TRỊNH LAN TRINH DÂNG KẾ “NGỰ XỬ TỬU”
Đại nhân Hy Lạc Đương có cha là Kim Chính đang làm chức Lĩnh Tướng (Quan Thừa tướng – cao nhất trong Phủ Nghị Chính nên còn gọi là Lĩnh Nghị Chính) và có cháu gái ruột (con của anh trai) là Kim Ngọc Hoa, Hy Lạc Đương muốn kết thông gia với nhà Pha Sơn Phủ Viện Quân tạo mối quan hệ tốt với Trung Điện nên gả cháu gái mình về làm chính thất của Doãn Nguyên Hành. Lan Trinh vốn là con của tiểu thiếp Đô Tổng Quản nên không thể làm chính thất của Doãn Nguyên Hành nên đành ngậm ngùi sau này làm tiểu thiếp thế nhưng cô vẫn dâng kế cho Doãn Nguyên Hành để Doãn Nguyên Hành tạo ấn tượng tốt với triều đình. Kế đó là để mừng ngày thành hôn, Nhị Thừa Hầu Quan đem quà tặng của khách đến mừng đổi lấy gạo đem phát cho dân nghèo. Trung Tông Nghe nói chuyện này hết sức vui mừng nên ban Ngự Xử Tửu cho Doãn Nguyên Hành. Việc này đến tai Trung Điện, Trung Điện hết sức vui mừng mà mời anh trai thứ vào Dao Thái Điện để gặp. Sau khi nghe kể về Lan Trinh, Trung Điện lập tức ban cho lễ phục và mời Lan Trinh vào cung gặp mặt.
TRỊNH LAN TRINH DÂNG KẾ “TUYÊN BỐ KHÔNG MANG THAI”
Bất kể Vương hậu nào của vương thất, việc sinh được hoàng tử chính là một sự chắc chắn cho địa vị Quốc mẫu nên việc Trung Điện muốn mang thai là điều không gì bàn cãi, cả hoàng cung đều ngóng tin từ Dao Thái điện xem khi nào Trung Điện có tin vui. Trung Điện khi vào cung thì cố Trung Điện Chương Kính Vương hậu có để lại hai đứa con đó là Nguyên tử và công chúa Hiếu Huệ trong đó Nguyên tử là con của chính thất sau này là vị trí số 1 của vị trí Vương Thế tử và lên ngôi sau khi vua cha Trung Tông băng hà. Ngay từ khi vào cung, Văn Định Vương hậu đã yêu quý hai đứa con của Chương Kính Vương hậu như con ruột đặc biệt là Nguyên tử càng được bà yêu thương chăm sóc như từ mẫu. Điều đó khiến Từ Thuận Đại phi hết sức hài lòng và trên quan điểm cùng là phụ nữ nên Từ Thuận Đại phi lại có ý mong muốn cho Trung Điện mang thai để địa vị của Trung Điện càng thêm vững chắc ở hậu cung. Trung Điện có giải thích cô không muốn mang thai là vì bất kể đứa con nào do cô sinh ra đều có thể gây nguy hiểm cho tương lai của Nguyên tử, đứa con mà cô coi như con ruột. Từ Thuận Đại phi nghe vậy cũng đồng tình và càng yêu quý sự bao dung của Trung điện đối với Nguyên tử. Trong hậu cung còn có các phi tần đặc biệt là 3 người là Kính Tần, Hy Tần và Xương Tần luôn có ước muốn gạt bỏ Văn Định vương hậu để tự mình dọn vào Dao Thái Điện lên ngôi Trung Điện và luôn muốn tìm kế hãm hại. Lần đầu vào cung nhưng Lan Trinh vốn thường qua Kỹ viện Cầu Chang Thông nên thường nghe các quan đến uống rượu nói chuyện thế cục triều đình, Lan Trinh thừa hiểu tình thế nguy hiểm của Trung Điện trước những phi tần hậu cung và các Quan công thần đứng sau lung họ. Lan Trinh dâng kế yêu cầu Trung điện tỏ rõ ý định không mang thai để tốt cho tương lai Nguyên tử vừa là tránh mũi nhọn từ phi tần hậu cung vì họ nghĩ cô không có thai sớm muộn cũng bị đuổi và vừa là để giành sự bảo vệ từ những quan viên ủng hộ Nguyên tử. Sau khi dâng kế, Lan Trinh ngày càng nhận được sự tin tưởng tuyệt đối của Trung Điện – từ đây Lan Trinh đặt lòng trung của mình nơi Trung Điện. Để cảm ơn Lan Trinh, Trung Điện tác thành hôn lễ giữa Trịnh Lan Trinh và Doãn Nguyên Hành anh trai thứ hai của mình, kể từ đây Lan Trinh chính thức trở thành tiểu thiếp Nhị thừa hầu quan.
HẬU CUNG CAN DỰ CHÍNH SỰ TRIỀU ĐÌNH
Việc Trung Điện tuyên bố không mang thai được lan truyền trong khắp hoàng cung và triều đình, các phi tần và quan viên triều đình cho rằng Trung Điện đang tự đào hố chôn mình nhưng nhờ cách này thì các quan trong triều đình không coi Trung Điện là mối lo, phe ủng hộ Nguyên Tử muốn bảo vệ Trung Điện vì Trung Điện đang có ích cho Nguyên Tử còn phe ủng hộ của các phi tần hậu cung thì giảm đề phòng thay vì toan tính tiêu diệt Trung Điện thì lại muốn tính toán tiêu diệt phe còn lại. Thế cục triều đình căng như dây đàn khiến vua Trung Tông vô cùng lo lắng và muốn cải cách triều đình, từ đây Trung tông sử dụng Triệu Quang tổ như một sự lựa chọn tình thế. Trung Tông muốn xây dựng nền chính trị đạo học dưới sự ủng hộ từ các nho sinh tiến bộ dẫn đầu là Triệu Quang Tổ.
NHỮNG CUỘC CẢI CÁCH CỦA TRIỆU QUANG TỔ
Thêm nhiều nhân tài giúp nước, làm sao cho đất nước này phát triển ngày một cường thịnh, nâng cao đời sống của bách tính là ước nguyện của ông, Triệu Quang Tổ đề xuất việc tuyển chọn nhân tài thông qua các địa phương và nhân dân tiến cử khiến việc thêm người tâm phúc của các quan viên triều đình gặp khó, nhiều người phản đối ông trong đó có Hoa Xuân Quân. Triệu Quang Tổ cũng là người cực lực phản đối các hủ tục mê tín của Xa man giáo (lên đồng) nên đề nghị Triều đình cho bãi bỏ Chiêu Cách Thự (điện thờ cho các ông bà đồng) khiến Từ Thuận Đại Phi và các Phi tần hậu cung vốn say mê tà đạo này căm ghét ông. Khi ông nhận ra rằng những Công thần có quyền lực lớn duy trì quan điểm cố cựu là nguyên nhân khiến đất nước kém phát triển mà ông nhận thấy rất nhiều tước vị công thần đều là ngụy tạo do không có công lao thực sự mà chỉ dùng tiền của để mua danh hiệu. Ông quyết định tấn công trực diện vào lớp quan viên cổ hủ trên.
TRIỆU QUANG TỔ BỊ TIÊU DIỆT
Tước vị công thần đem đến quyền lực và địa vị cho các quan viên nên khi bị Triệu Quang Tổ và các nho sinh chĩa mũi dùi vào tước vị đó thì phe công thần trở nên đoàn kết hơn bao giờ hết, họ quyết định gác lại mọi thù oán cá nhân và đấu đá quyền lực để tập trung lực lượng tiêu diệt Triệu Quang Tổ. Trước tiên họ liên minh với phi tần hậu cung để dùng mật ong viết chữ “Họ Triệu Làm Vua” lên trên lá cây trong Đại Điện Chí Mật của Hoàng cung sau đó sâu ăn lá cây được bôi mật, kết quả là hầu như lá rụng đều có chữ “Họ Triệu Làm Vua” và tung tin đồn này khắp triều đình và dân chúng như điềm báo. Từ Thuận Đại phi hay tin liền theo suy diễn từ các Phi tần hậu cung cho rằng Đây là điền báo Triệu Quang Tổ sẽ phản nghịch. Các quan viên phe Công thần tìm cách bỏ tiền và thư nặc danh mưu phản vào nhà của Triệu Quang Tổ rồi tiến hành khám xét tìm bằng chứng tội danh mưu phản. Kết cục xảy đến là toàn bộ phe cải cách và cách chương trình canh tân đất nước của Triệu Quang Tổ đều bị phế bỏ và tiêu tan sau khi ông bị tiêu diệt khỏi triều đình. Qua việc này, vua Trung Tông lại cho rằng nếu không có các Công thần khám phá ra âm mưu phản nghịch trên thì ông đã mất ngôi vào họ Triệu, sự sáng suất của Trung Tông trở nên ngu muội nhất thời dẫn đến việc ông ban thuốc độc cho Triệu Quang Tổ và lưu đày nhiều nho sinh có tâm với đất nước.
TRUNG ĐIỆN BỊ CÔ LẬP
Là một người có lòng dạ lo cho đất nước lại thấy những cải cách của Triệu Quang Tổ hết sức có lợi ích cho cả triều đình và bách tính nên Vương Hậu Văn Định hết lòng ủng hộ và ca ngợi cho tài đức của Triệu Quang Tổ. Bởi vậy sau khi Triệu Quang Tổ bị tiêu diệt thì Trung Điện lại trở thành cái gai trong mắt của các quan viên triều đình đứng đầu bởi phe Công thần Huân cựu. Về phía các Phi tần hậu cung, cảm thấy tình thế bất lợi của Trung Điện là một tin tốt với mình để có thể bước chân vào Dao Thái điện lên ngôi Vương Hậu nên cũng ra sức trù tính mưu kế, người tích cực nhất là Kính tần họ Phác.
TRUNG ĐIỆN QUYỀN UY TRƯỚC PHI TẦN HẬU CUNG
Chính thời gian này Trung Điện mang thai nhưng lại một mặt vờ cho Trịnh Lan Trinh tung tin với Kính tần rằng mình mang thai thật trong khi mặt khác lại bảo Ngự y báo cáo với Kính Tần rằng Trung Điện không hề có thai. Kính tần lúc này không tin Trịnh Lan Trinh vì nghĩ cô ta là chị dâu của Trung Điện nên mới nói là Trung Điện mang thai thật trong khi không hề mang thai như ngự y báo (Trung Điện cho ngự y bắt mạch cung nữ nên ngự y lầm rằng Trung Điện không có thai). Kính tần ra sức tung tin đồn là Trung Điện mang thai giả, hòng lật mặt Trung Điện, Kính tần đem chuyện giả mang thai báo với Từ Thuận Đại phi. Do được Kính tần ra sức loan tin nên chuyện Trung Điện giả mang thai khiến cả triều đình chú ý. Vua Trung Tông đích thân triệu 10 ngự y cùng khám thai để làm rõ thực hư. Trung Điện cho rằng sự nghi ngờ của Vua Trung Tông và Từ Thuận Đại Phi là một nỗi nhục của cô nên cô yêu cầu nếu sự thật được làm rõ thì cô có quyền xử lý những người gây ra tin đồn và được quyền chỉnh đốn hậu cung. Khi chuyện Trung Điện thực sự có thai được làm rõ, vua Trung Tông và Từ Thuận Đại phi càng yêu quý Trung Điện còn Kính tần thì bị vua Trung Tông quở trách gay gắt. Cũng nhân cơ hội này, Trung Điện thể hiện rõ quyền uy không thể xâm phạm của mình trước hậu cung và Triều đình từ đó có được đúng vai trò là Quốc mẫu của đất nước.
TẤN LẬP VƯƠNG THẾ TỬ
Vương Thế Tử là người con của vua được chọn làm người kế vị để kế thừa đại thống của đất nước. Vương Thế Tử được lập ra từ một trong số những người con trai của vua, thường là con của chính thất do Vương Hậu sinh ra sẽ được chọn. Các quan viên triều đình lo lắng rằng sau khi Trung Điện sinh được con trai thì người đó sẽ được hậu thuẫn từ mẫu hậu mà lên ngôi Vương Thế Tử cho nên đồng loạt liên minh thành một khối dâng tấu lên vua Trung Tông yêu cầu lập Thế Tử. Trước dư luận từ triều đình và Hoàng thất nên vua Trung Tông quyết định lập Vương Thế Tử nhưng khác với thông lệ chỉ chọn con của Chính thất, vua Trung Tông muốn các con của mình cùng so tài đức, con trai của các phi tần hậu cung cũng có thể tham gia, đúng như Trung Tông suy đoán, liên minh thống nhất này lập tức chia làm năm phe, Phe Nam Cổn, Hoa Xuân Quân thì ủng hộ con Trưởng của Trung Tông là Phúc Thành Quân, Phe Phán Phủ Sự, Hi Lạc Đương thì ủng hộ Nguyên Tử con của cố Trung Điện (tức Chương Kính Vương Hậu) lên ngôi vì là con của chính thất, Phe của Hồng Cảnh Chu muốn ủng hộ Cẩm Nguyên Quân con trai Hi Tần, Phe thì ủng hộ Đức Hưng Quân con trai Xương Tần, Phe lại ủng hộ Đích tử chưa ra đời của Trung Điện hiện tại và bắt đầu đấu đá tranh luận gay gắt.
Sau mọi tranh đấu vua Trung Tông chọn Nguyên Tử lên ngôi Vương Thế Tử kế thừa đại thống của đất nước theo ý kiến của đương kim Trung Điện.
ÂM MƯU PHẾ TRUẤT TRUNG ĐIỆN
Hạ sinh công chúa:
Sau một thời gian mang thai, Trung Điện hạ sinh công chúa. Trung Tông thì không lấy làm vui vẻ, các phi tần hậu cung thì mừng thầm còn quan viên triều đình trừ những nho sinh chân chính đều cho rằng đây là cơ hội tốt để phế truất Trung Điện – vị quốc mẫu ủng hộ nho sinh cải cách đất nước mà đối chọi lại các Công thần huân cựu.
Doãn Nguyên Hành bị vu khống:
Trong kinh đô khi ấy kinh tế phát triển phồn thịnh, những nhà buôn phần nhiều là những người giàu nứt đố đổ vách. Một hiệu buôn tên Nam tiểu môn ở gần Cửa Nam kinh đô có ông chủ tên Bạch Chí Xuân là người buôn bán giỏi và giàu có, ông ta luôn dành được các mối làm ăn kiếm được nhiều lợi nhuận vì có quan hệ tốt với các quan viên triều đình mà đa phần là phe phái công thần. Ông chủ này thường xuyên hối lộ các quan để được nhiều mối lợi với số lượng tiền bạc vô cùng lớn. Hối lộ các công thần chỉ là một trong nhiều phi vụ làm ăn, ông ta còn tiến hành cho các nhà giàu vay tiền để làm ăn, tiêu dùng. Trong một lần cần một số tiền lớn để mua gạo đem cứu tế ở một nơi xa, Doãn Nguyên Hành có vay của Bạch Chí Xuân số tiền Ba vạn đồng và việc này ông chủ Bạch có ghi rõ trong sổ ghi chép. Kính Tần vì muốn phá nguồn tài chính của các công thần và lật đổ thế cờ độc tôn trong triều của bè lũ Phán Phủ Sự và Hi Lạc Đương cho nên lệnh cho Nam Cổn tìm cách bắt giữ Bạch Chí Xuân vì bà ta đã quen biết một thương gia khác sẵn sàng đầu tư tiền của vốn liếng chính trị cho mình là Chương Đức Nhân, sau khi kế hoạch thành công, ông chủ Bạch bị bắt vào Phủ Nghi Cấm, sau khi Cấm phủ nghiêm hình tra tấn thì lôi được trong người ông ta ra hai cuốn sổ cho vay và hối lộ, Hi Lạc Đương cho dấu nhẹm quyển danh sách hối lộ mà trình ra quyển danh sách cho vay. Vậy là tất cả những người có trong danh sách này đều bị tình nghi là nhận hối lộ, Doãn Nguyên Hành và nhiều người mặc dù không hề nhận hối lộ nhưng cũng bị bắt giam tra khảo còn Hi Lạc Đương và các quan viên Huân cựu lại yên tâm vì chuyện nhận hối lộ không bị tiết lậu. Cũng trong sự kiện này Doãn Nguyên Hành bị Trung Tông tước bỏ tư cách tham gia khoa cử vì dù không phải tội nhận hối lộ cũng là tội vay tiền của thương nhân.
Kim Sang trộm sách cho Trịnh Lan Trinh:
Trong tình cảnh Trung Điện bị các thế lực triều đình bủa vây tiêu diệt, Trung Điện rất bình thản vì lo lắng cũng không giải quyết gì, phe công thần ra sức tiêu diệt nên cho bắt Đại thừa hầu quan (anh trai cả -vô dụng ăn hại) và Cha của Trung Điện (Pha Sơn Phủ viện Quân) vào Cấm phủ để tra tấn. Trái với lại Cha và em trai vì bảo vệ Trung Điện nên kiên quyết không nhận tội thì Đại thừa hầu quan lại sợ chết nên nhận tội kéo theo việc Trung Điện có thể bị phế truất và ban thuốc độc bất cứ lúc nào.
Trong lúc này hai bà vợ của Nhị thừa hầu Quan là chính thất họ Kim và Trịnh Lan Trinh tìm mọi cách để cứu nhà chồng. Kim phu nhân về cầu xin chú ruột (Kim An Lão) Hy Lạc Đương và ông nội làm Lĩnh Tướng nhưng vì muốn tiêu diệt Trung Điện nên hai người không chấp nhận thỉnh cầu của cháu gái. Trịnh Lan Trinh sau khi suy nghĩ mọi đầu dây mối nhợ thì tìm Kim Sang thỉnh cầu anh đến trộm quyển danh sách quan viên nhận hối lộ trong tay Hy Lạc Đương. Mọi việc thành công, Trịnh Lan Trinh đem quyển danh sách ấy vào cung dâng lên cho Trung Điện và kế sách để Trung Điện từ chỗ chết mà được sống cũng là để Trung Điện có thể dùng mà trao đổi với bên công thần giúp củng cố địa vị Trung Điện và đưa cha và hai anh trai ra khỏi Cấm phủ.
Trung Điện hy sinh cho Vương Thế Tử:
Mặc dù quyển danh sách có thể giúp mình và gia đình thoát khỏi cảnh diệt môn nhưng nếu làm vậy thì không thể nào tiêu diệt được các công thần, sau cùng Trung Điện quyết định giao lại quyển danh sách cho Vương Thế Tử để sau này khi Vương Thế Tử lên ngôi vua sẽ dùng quyền lực của mình để hạ bệ đám công thần hại dân hại nước nhằm củng cố quyền lực. Trung Điện coi Vương Thế Tử như con ruột nên dù phải hy sinh bản thân và diệt vong cả gia tộc cũng phải làm bằng được chuyện giúp Vương Thế Tử vững mạnh về sau này.
TRUNG ĐIỆN BỊ PHẾ TRUẤT
Chuyện gì đến cũng phải đến, sau khi Cấm phủ dâng lên Trung Tông bản công khai nhận tội của Đại Thừa Hầu quan thì Trung Tông ra lệnh Phế truất Trung Điện đuổi về tư gia và ban thuốc độc, kế đó sẽ lưu đày vĩnh viễn cha và hai anh trai của Trung Điện. Trước khi lên kiệu rời khỏi Dao Thái Điện thì Trung Điện giao quyển danh sách hối lộ các quan viên cho Vương thế tử với lời dặn sau này lên ngôi sẽ tiêu diệt bọn hại dân hại nước làm một vị vua anh minh.
TRUNG TÔNG CẢM ĐỘNG ĐỨC HY SINH CỦA TRUNG ĐIỆN
Trong lúc kiệu đưa phế hậu khỏi hoàng cung thì Vương thế tử đến xin vua cha tha thứ cho mẫu hậu. Trung Tông cũng thực lòng yêu thương Trung Điện nhưng trước những tội trạng rõ ràng của gia đình Trung Điện và sức ép của các quan viên, các công thần nên ông đành phải ra chiếu chỉ phế hậu. Chợt thấy quyển sách trong tay Vương thế tử đang cầm, Trung Tông hỏi vật trong tay là gì và được Vương Thế tử dâng lên và nói rằng đây là vật mà Trung Điện giao cho để sau này lên ngôi sẽ trở thành vị vua anh minh.
Sau khi vua Trung Tông đọc quyển danh sách quan viên nhận hối lộ, Trung Tông liền hiểu ra sự hy sinh to lớn của Trung Điện và nỗi oan khuất của gia đình Pha Sơn Phủ viện Quân đồng thời nhận ra sự thất vọng của người vợ tào khang do mình hèn kém trước các công thần, vua Trung Tông ban chiếu chỉ phục hồi vương vị Văn Định Vương Hậu cho Trung Điện và lập tức quay đầu kiệu về đại điện trước sự ngỡ ngàng và hụt hẫng của các quan viên triều đình.
PHE CÔNG THẦN THẤT THẾ
Các công thần khi hay tin Trung Điện đã về cung thì kéo nhau đến Đại Điện để chất vấn Trung Tông chuyện thu hồi chiếu chỉ. Tại đại diện Trung Tông trước mặt triều thần công khai xin lỗi Trung Điện và ban khen trước mặt các quan viên đồng thời giao quyền xử lý các quan viên và công thần nhận hối lộ cho Trung Điện. Trung Điện sau khi trách mắng và phân giải thiệt hơn thì bẩm lên Trung Tông cách chức Lĩnh Nghị Chính của Kim Chính và lưu đày Kim An Lão (Hy Lạc Đương) và Doãn Nhâm (Phán Phủ Sự) vì những hành động khiến gia tộc của Trung Điện bị oan sai.
QUYỀN LỰC CỦA KÍNH TẦN
Trong khi Kim An Lão, Doãn Nhâm cùng bè phái của bọn họ bị thất thế thì các công thần ủng hộ Kính Tần lại được ông chủ Chương Đức Nhân cung cấp cho một nguồn tiền dồi dào để mua chuộc công luận triều đình từ các quan viên để rồi điền tay chân thân cận của Kính Tần vào các vị trí trọng yếu trong triều, nơi mà khoảng trống quyền lực vừa mới bị bỏ lại.
Đến lúc này, trong khi quyền lực của Kính Tần lên cao thì bà ta lại muốn ngồi vào Dao Thái Điện, trải qua nhiều năm, Trung Điện thêm hai lần mang thai nữa nhưng cũng chỉ là công chúa. Sau ba lần sinh con đều không sinh được Hoàng Tử, lúc này quyền thế của Trung Cung Điện có phần suy yếu từ đó dẫn đến việc Kính Tần thúc đẩy âm mưu phế truất Trung Điện. Phúc Thành Quân đến Dao Thái Điện buông lời bất kính đe doạ Văn Định Vương Hậu khiến Trung Điện cảm thấy mối nguy rình rập ngay trước mắt.
LOẠI BỎ KÍNH TẦN
Chính biến chuột thiêu:
Nhận thấy mối nguy từ Kính Tần ngày một lớn. Trung Điện nghe theo kế sách của Trịnh Lan Trinh liên kết với Kim An Lão để loại bỏ Kính Tần. Sau khi Trịnh Lan Trinh đến nơi lưu đày bàn bạc mưu kế với Hy Lạc Đương và Phán Phủ Sự thì khi trở về Trịnh Lan Trinh tạo một số bùa chú được làm từ chuột chặt bỏ mũi cho giống lợn rồi đem thiêu cháy lông sau đó đem treo trong vườn cây Đông Cung để nguyền rủa Vương Thế Tử. Lan Trinh cũng tìm cách tạo công luận để mọi nghi ngờ đổ về phía Kính Tần. Các quan trong triều đều cho là việc Kính Tần gây ra để cho Phúc Thành Quân thay thế vị trí Vương Thế Tử, ai cũng nghĩ như vậy nhân đó Trung Điện xin vua Trung Tông cho triệu Phán Phủ Sự và Hy Lạc Đương về triều để bảo vệ Vương Thế Tử.
Lưu đày Kính Tần và Phúc Thành Quân:
Sau khi về Triều Hy Lạc Đương tập hợp lực lượng để loại bỏ mẹ con Kính Tần, lúc này các quan dựa vào Kính Tần để thăng quan tiến chức cho rằng Kính Tần là chủ mưu vụ chuột thiêu nên ra sức vùi đạp phản trắc lại Kính Tần đứng đầu bọn này là Hoa Xuân Quân, các tông thân Hoàng thất đứng đầu là Từ Thuận Đại Phi cũng ra sức ép Trung Tông loại bỏ Kính Tần. Trước sức ép của Hoàng Thất và quan viên triều đình, Mẹ con Kính Tần bị lưu đày.
Ban chết Kính Tần và Phúc Thành Quân:
Kính Tần là một trong những phi tần được sủng ái ngay từ khi Trung Tông lên ngôi nên sau khi hai mẹ con họ bị lưu đày Trung Tông nhớ tiếc và ban ngự tửu nhằm động viên hai người. Triều đình rúng động trước sự kiện nhỏ này vì Kính Tần tuy rất hống hách thậm chí là coi trời bằng vung nhưng trong chính biến chuột thiêu thì bà ta bị oan nên đứng trước viễn cảnh Trung Tông nhân từ tha chết cho mẹ con Kính Tần thì sẽ có ngày mẹ con họ sẽ được gọi về triều và máu nhuộm triều đình sẽ là cảnh tượng nhất định xảy ra nên Lan Trinh và Hy Lạc Đương bỳ mưu ghép tội 2 con rể của Kính Tần có mưu đồ tạo phản. Tại Cấm Phủ, trước sự tra tấn tàn khốc của Kim An Lão thì 2 người con rể của Kính Tần đã nhận tội mưu phản. Công luận triều đình, sức ép của Hoàng Thất liên tục thúc ép. Vua Trung Tông đã phải ban chết cho Kính Tần và Phúc Thành Quân.
Năm 1530 Từ Thuận Đại Phi qua đời.
QUYỀN LỰC TUYỆT ĐỐI CỦA HY LẠC ĐƯƠNG – KIM AN LÃO
Sau khi quyền lực của Kính Tần sụp đổ, quan viên triều định lại gửi sự trung thành của mình vào nhóm lợi ích Hy Lạc Đương và Phán Phủ Sự, cũng từ đây Kim An Lão luôn tạo công luận triều đình theo hướng có lợi cho ông ta cùng phe nhóm, mọi quyết định, chính sách trong ngoài triều đình được Trung Tông ban hành đều theo ý muốn của Kim An Lão khiến quyện lực của ông ta có thể một tay che trời.
Trong thời gian Kim An Lão nắm quyền thì các chức quan đều do ông ta điều động, các chức quan trong Lục tào, Nghĩa Cấm Phủ, Đô Tổng Phủ đến Tam Ty.. đều là người của ông ta, người giúp ông ta về tiền bạc để làm chính trị là Chương Đức Nhân khiến ông ta có nguồn tiền dồi dào để lôi kéo các quan viên đứng chung lợi ích với mình. Lấy danh nghĩa bảo vệ Vương Thế Tử, ông ta đã dần dần loại bỏ hết các đối thủ chính trị nổi bật nhất là Hoa Xuân Quân và sau khi loại dần các vật cản cản trở quyền lực, ông ta bắt đầu nhắm đến hai người phụ nữ quyền lực đó là Trung cung điện Văn Định Vương Hậu và tiểu thiếp nhị phu nhân Thừa hầu quan Trịnh Lan Trinh. Kim An Lão đã sắp xếp nữ nhân trong họ Kim sẵn sàng thay thế Trung Điện sau khi tiêu diệt quyền lực của Trung Điện.
TIÊU DIỆT KIM AN LÃO – HY LẠC ĐƯƠNG
Đúng lúc Kim An Lão ra tối hậu thư với Trung Cung Điện và Trịnh Lan Trinh yêu cầu hai người phụ nữ này từ bỏ quyền lực thì đúng lúc ấy cái tin Trung Điện mang thai lần thứ 3 ập đến. Đúng lúc này mọi kế hoạch tiêu diệt Trung Điện của Kim An Lão chính thức dừng lại, trong triều đình có một nhóm quan lại mới nổi đứng đầu là Nhị Thừa Hầu Quan - Doãn Nguyên Hành cũng đã bắt đầu lợi dụng cái thai trong bụng Trung Điện để lôi kéo quan viên triều đình để củng vố quyền lực cho Trung Cung Điện.
Về phía Phán Phủ Sự - Doãn Nhâm, nắm được tin tức Phán Phủ Sự hay đến kỹ viện Cầu Trang Thông tìn gặp Ốc Mê Hăng, Trịnh Lan Trinh đã tìm cách để Ốc Mê Hăng cô lập, ly gián Phán Phủ Sự (cậu ruột Vương Thế Tử) và Hy Lạc Đương, khi mối nghi kị giữa hai người được hình thành thì cũng chính là lúc mà tính chính danh bảo vệ Vương Thế Tử của Hy Lạc Đương không còn nữa, các hành động kết minh, liên hiệp các quan viên triều đình bảo vệ, củng cố quyền lực cho Vương Thế Tử trở thành tội kéo bè kết phái lũng đoạn triều cương.
Biến động lớn nhất là sau khi Trung Điện hạ sinh Hoàng Tử, Trung Tông hết sức vui mừng khi có con trai, cùng lúc này Trung Điện mật ước với Phán Phủ Sự sẽ hết sức ủng hộ đảm bảo vị trí kế vị của Vương Thế Tử đổi lại Phán Phủ Sự sẽ hết lòng bảo vệ Mẹ con Trung Điện và Hoàng Tử sau khi Trung Tông băng hà. Mật ước này là kế của Trịnh Lan Trinh giúp Phán Phủ Sự bớt đi sự đề phòng Trung Điện và Hoàng tử để tập trung tiêu diệt Hy Lạc Đương.
Càng lúc kế hoạch ly gián của Lan Trinh càng thành công, lúc này Phán Phủ Sự chỉ thấy Hy Lạc Đương là kẻ lạm quyền, lấm át triều đình và quan viên, lúc đỉnh cao quyền lực xung đột trực tiếp với Phán Phủ Sự và Vương Thế Tử, ông ta còn nêu rõ ý định muốn dùng sức ép triều đình và quyền lực nắm trong tay để phế trất Vương Thế Tử lập Cẩm Nguyên Quân con trai Hỷ Tần lên thay. Không thể nhịn nổi nữa, Phán Phủ Sự liên kết với Đại Tư Hiến, Đô Tổng Phủ, Cấm Phủ nhân ngày thành hôn của con trai Hy Lạc Đương đã tiến hành đảo chính quyền lực bắt giam Hy Lạc Đương kết tội lũng đoạn triều cương, âm mưu phế bỏ Vương Thế Tử và bị ban chết sau đó.
ĐỐI ĐẦU ĐẠI DOÃN – TIỂU DOÃN
Sau khi Hy Lạc Đương chết, Trịnh Lan Trinh nhân đó mà ép thuốc độc giết chết Kim Phu Nhân vợ cả của Doãn Nguyên Hành tức chính thất để tự mình làm vợ duy nhất của Thừa Hầu Quan, Doãn Nguyên Hành do thù ghét Hy Lạc Đương mà vợ cả của mình là Kim phu nhân lại là cháu ruột của Hy Lạc Đương nên cái gai này y cũng muốn nhổ bỏ. Hoàng Tử do Trung Điện sinh ra do là con của chính thất Trung Điện nên được phong là Đại Quân gọi là Khánh Nguyên Đại Quân. Sau cái chết của Hy Lạc Đương, triều đình hình thành hai thế lực mới cực mạnh là Đại Doãn tức là Phán Phủ Sự - Doãn Nhâm và Tiểu Doãn tức là Nhị Thừa Hầu Quan – Doãn Nguyên Hành, hai phe liên tục muốn đấu đá và tiêu diệt lẫn nhau, một bên là cậu ruột của Vương Thế Tử và một bên là cậu ruột của Khánh Nguyên Đại Quân.
TRIỀU TIÊN NHÂN TÔNG
Trải qua 25 năm tại ngôi Thế tử và trải qua bao lần bị ám hại, cuối cùng cũng lên ngôi Đại vương ở tuổi 30 năm 1544 tại Minh Chính điện ở Xương Khánh cung. Sau khi lên ngôi thì Nhân Tông đã phục chức cho Triệu Quang Tổ cùng những người bị hại trong Kỉ Mão sĩ họa và cho khôi phục lại kì thi Hiền lương khoa. Ngoài ra trong thời gian trị vì của mình, Nhân Tông muốn hiện thực hóa tư tưởng đạo học mà mình đã thầm nhuần để ứng dụng vào bộ máy chính trị. Vì vậy Nhân Tông đã cho những người của phái Sĩ lâm vào triều làm việc. Do đó mà những người dấn thân vào chính trường lúc đó đều là các đại học giả như Lý Ngạn Địch và Liễu Quán.
Tuy nhiên, chí lớn của mình chưa thành thì Nhân Tông đã qua đời ở tuổi 31. Vì nôn nóng quyền lực nên Trịnh Lan Trinh đã tìm cách lén hạ độc giết chết Nhân Tông. Ông ở ngôi chỉ vừa quá 8 tháng, việc ra đi vội vã của Nhân Tông là âm mưu của Vương Thái hậu Văn Định. Mặc dù là kế mẫu nhưng Nhân Tông luôn hiếu thảo hết mực với Vương Thái hậu Văn Định, người mẹ nuôi nấng mình khôn lớn. Dù vậy, Vương Thái hậu Văn Định luôn đối đãi với Nhân Tông như kẻ thù, khi dâng trà vấn an cho thì bà luôn hỏi Nhân Tông là khi nào thì giết bà và Khánh Nguyên Đại quân nhưng ông không ghét bỏ hay trách móc gì bà mà ngược lại còn nghĩ bản thân vẫn chưa đủ hiếu thảo mà tự trách bản thân. Thậm chí người ta còn đồn đoán rằng Nhân Tông không có người con trai nào là để nhường vương vị lại cho Khánh Nguyên Đại quân là con trai của Vương Thái hậu Văn Định chỉ để làm hài lòng bà.
TRIỀU TIÊN MINH TÔNG VÀ QUYỀN LỰC CỦA VĂN ĐỊNH ĐẠI HOÀNG ĐẠI PHI
Sau khi Nhân Tông qua đời, Khánh Nguyên Đại Quân kế vị trở thành Triều Tiên Minh Tông, Vương Thái hậu Văn Định trở thành Đại Hoàng Đại Phi hay còn gọi là Đại Vương Đại Phi. Dưới triều đại của Minh Tông đại vương, triều đình được chia thành hai phái; Đại Doãn đứng đầu là Doãn Nhậm, cậu của Triều Tiên Nhân Tông; và Tiểu Doãn đứng đầu bởi Doãn Nguyên Hành, cậu của Minh Tông. Đại Doãn lên nắm quyền vào năm 1544, khi Nhân Tông nối ngôi; nhưng họ đã thất bại trong việc không thể tiêu diệt phe đối lập, từ lúc Văn Định Vương hậu bảo vệ phái Tiểu Doãn và những viên quan khác.
LAN TRINH LÀM NHẤT PHẨM CHÍNH KINH PHU NHÂN
Sau khi Chính thất của Thừa Hầu Quan chết, xét đến các công lao của Lan Trinh với gia môn họ Doãn, sự trung thành của Lan Trinh với Trung Điện nên Văn Định Đại Hoàng Đại Phi gia phong tước vị nhất phẩm chính kinh phu nhân.
Tiêu diệt Doãn Nguyên Lão, Cẩm Nguyên Quân và Pha Đông Cun.
Để giúp cho Văn Định Đại Hoàng Đại Phi nắm toàn bộ quyền lực nhiếp chính triều đình cai trị đất nước, Lan Trinh tìm cách tiêu diệt các đối thủ chính trị cuối cùng đe dọa đến quyền lực của Văn Định Đại Hoàng Đại Phi. Sau khi Triều Tiên Nhân Tông băng hà, Tiểu Doãn thay thế Đại Doãn trong triều đình và Lan Trinh cùng chồng là Tiểu Doãn đã thẳng tay sát hại kẻ thù của họ trong lần thứ tư của cuộc thanh trừng. Phán Phủ Sự Doãn Nhâm bị giết chết cùng với phe cánh của mình, đây gọi là Ất Tị sĩ họa. Doãn Nguyên Hành được phong Tả nghị chính, trực tiếp chuyên quyền, đồng thời tiếp tục cuộc tấn công vào phe đối lập.
Năm 1546, Doãn Nguyên Hành kết tội cho người anh của mình là Doãn Nguyên Lão, khiến ông này bị giết vài ngày sau đó cùng với những người theo ông ta. Khi trong triều đình đã không còn đối thủ, Doãn Nguyên Hành nghiễm nhiên trở Lãnh nghị chính, tối cao quan tước trong quan chế Triều Tiên.
Lợi dụng phong Thư thu giữ được của Hy Lạc Đương trước đây bàn về việc phế bỏ Vương Thế Tử (là Triều Tiên Nhân Tông trước khi lên ngôi) mưu lập Phượng Thành Quân con của Hỷ Tần nên đã lật lại vụ việc ban chết cho Phượng Thành Quân và đuổi Hỷ Tần khỏi hoàng cung.
Vị đại sư từng giao Lan Trinh cho tiểu thiếp Đô Tổng Quản Trịnh Doãn Khiêm làm con nuôi đã tới gặp Pha Đông Cun Hoàng thúc và nói rõ việc Lan Trinh là con gái ruột của ông và Người kỹ nữ năm xưa. Chưa kịp vui mừng nhận cha con thì Pha Đông Cun đã bị Văn Định Đại Hoàng Đại Phi và Lan Trinh khép tội danh mưu phản và tiêu diệt. Pha Đông Cun hoàng thúc bị ban thuốc độc, trước khi mất Pha Đông Cun giao lại miếng ngọc bội nhận người thân gửi về cho Lan Trinh. Cũng từ đây Lan Trinh hối hận và nghe theo Phật pháp và tham mưu với Văn Định Đại Hoàng Đại Phi ưu tiên Phật giáo, tuy rằng quyền hành nghiêng đổ triều chính nhưng khi Triều Tiên Minh Tông khép tội và ban chết, Lan Chinh không tìm cách chống lại và đón nhận cái chết.
Năm 1549, Xương Tần họ An qua đời tại Cung Cảnh Phúc, bà khi còn sống luôn hết mực trung thành với Văn Định Vương Hậu cho nên sau khi Trung Tông băng hà, thay vì bị đưa ra khỏi cung lên chùa đi tu thì bà vẫn được cho ở lại sống trong hoàng cung cho đến khi tạ thế.
Trong thời gian cầm quyền, Lan Trinh tham mưu cho Văn Định Vương hậu đã ra lệnh chia lại những phần đất đai cho dân chúng mà trước đây đều thuộc quyền sở hữu của tầng lớp quý tộc. Hai người phụ nữ này là tuýp người bài Nho giáo và sùng Phất giáo, nên trọng dụng nhà sư Phổ Vũ và thiết lập Tăng khoa. Sau khi Minh Tông 20 tuổi, đã đủ chín chắn để trị vì, nhưng trên thực tế thì Văn Định Đại Hoàng Đại Phi vẫn phải giải quyết công việc của đất nước thay cho Minh Tông.
Năm 1565, Văn Định Đại Hoàng Đại Phi qua đời sau 20 năm cầm quyền, Minh Tông quyết định tự mình cai trị đất nước. Minh Tông đã cho xử tử người cậu của mình là Doãn Nguyên Hành, cùng với bà vợ thứ hai của Doãn là Trịnh Lan Trinh – Nhất phẩm Chính Kinh phu nhân.
Không những thế, sau khi thu hồi quyền lực về tay mình, Minh Tông đã cố gắng để cải cách lại bộ máy triều đình. Bãi bỏ Tăng khoa do Văn Định Đại Hoàng Đại Phi thiết lập, chiêu hiền đãi sĩ và tiếp tục trọng dụng Nho giáo làm chính thống của chế độ. Bên cạnh đó, Minh Tông dần xuống tay với nhiều người ngoại thích của Văn Định Đại Hoàng Đại Phi, mau chóng kết thúc cục diện lũng đoạn hơn 20 năm do sự chuyên quyền của Văn Định Đại Hoàng Đại Phi.
NỮ NHÂN THIÊN HẠ
Xương tần họ An (1498 - 1549), người ở An Sơn. Bà là con gái của Địch thuận phó úy An Thản Đại , mẹ là Hoàng phu nhân. Sinh hạ Vĩnh Dương quân, Đức Hưng đại viện quân, Tĩnh Thận ông chúa và Vương tử Dinh Thọ chết yểu. Bà là bà nội tức hoàng tổ mẫu của Triều Tiên Tuyên Tổ,
Năm 1567, ngày 28 tháng 6, Minh Tông thăng hà ở Dưỡng Tâm đường trong Cảnh Phúc Cung, hưởng thọ 34 tuổi. Ông qua đời mà không có người con nào kế vị, vì con trai duy nhất là Thuận Hoài Thế tử đã qua đời sớm. Do đó, cháu của ông là Lý Công, con trai của Đức Hưng quân cháu nội của Xương Tần họ An, được quần thần tôn làm người kế vị, sử gọi là Triều Tiên Tuyên Tổ, như vậy trong cuộc tranh giành quyền lực của các bà phi tần Triều Tiên Trung Tông thì Xương Tần là người giành chiến thắng sau cùng – Nữ nhân thiên hạ.
Tạo bởi: Chu Đức Thuận